Nội dung chính
- Cổ phiếu là gì
- Phần 1: giá cổ phiếu là gì
- Phần 2: phân loại dựa vào tính chất của cổ phiếu
- Phần 3: phân loại cổ phiếu theo vốn hóa thị trường, và cách đầu tư từng loại
- Phần 4: phân loại cổ phiếu theo sàn niêm yết, và danh mục cổ phiếu
- Phần 5: 1001 câu hỏi về các nghiệp vụ trong cổ phiếu
- Chia tách cổ phiếu là gì
- Cổ phiếu lô lẻ là gì
- Bán khống cổ phiếu là gì
- Pha loãng cổ phiếu là gì
- Repo cổ phiếu là gì, thế chấp cổ phiếu là gì
- phát hành cổ phiếu để trả cổ tức là gì, phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu là gì
- Thưởng bằng cổ phiếu là gì
- Cổ phiếu esop là gì, phát hành cổ phiếu esop
- Cổ phiếu chưa được giao dịch ký quỹ là gì, kí quỹ mua cổ phiếu là gì
Cổ phiếu chính là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một
cổ đông đối với một công ty cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng
cổ phiếu. Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần, người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu.
Thông
thường hiện nay các công ty cổ phần thường phát hành 02 dạng cổ phiếu: Cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Quyền
hưởng cổ tức: cổ tức là phần lợi nhuận của cty dành để trả cho những người chủ
sở hữu. Cổ tức có thể được trả bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu mới
- Quyền ưu tiên mua trước cổ phiếu mới: Quyền mua trước trong 1 th.gian nhất định khi cty ph.hành 1 đợt CP mới, lượng CP mới được quyền mua trước tương ứng với tỷ lệ cổ phiếu hiện đang sở hữu cùng với giá mua và thời hạn mua trước theo quy định cụ thể trong từng đợt chào bán. Nếu cổ đông không th.hiện quyền họ có thể bán quyền
- Quyền bầu cử và ứng cử vào các chức vụ quản lý, quyết định các vấn đề quan trọng của cty tại ĐHĐCĐ. Cổ đông có thể ủy quyền biểu quyết
- Các quyền khác: kiểm tra sổ sách cty, yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ bất thường…
Ưu
đãi về cổ tức: ấn định tỷ lệ cổ tức tối đa so với mệnh giá hoặc 1 mức cổ tức tối
đa
Cty
hoạt động bình thường, thu nhập từ cổ phiếu ưu đãi thường cố định. Cổ đông ưu
đãi không được tham gia bỏ phiếu
Lợi
nhuận không đủ, cty trả theo khả năng có thể
Khi
thua lỗ, cty có thể không trả cổ tức. Khi thanh lý tài sản, cổ đông ưu đãi được
ưu tiên nhận vốn còn lại trước cổ đông phổ thông nhưng sau trái chủ
CP
ưu đãi cổ tức có kèm theo những điều khoản để tăng thêm tính hấp dẫn:
- CP ưu đãi cộng dồn: Nếu chưa trả cổ tức, xem như cty còn nợ cho đến khi cty có đủ lợi nhuận để trả
- CP ưu đãi tham dự: có thể nhận được cổ tức cao hơn quy định
- CP ưu đãi có thể chuyển đổi: có thể chuyển đổi thành CP phổ thông
Hiểu giá cổ phiếu qua 3 định nghĩa sau: mệnh giá cổ phiếu, thị giá cổ phiếu và giá trị sổ sách của cổ phiếu
Mệnh giá cổ phiếu là gì
Hầu
hết các công ty cổ phần ấn định mệnh giá cho mỗi cổ phiếu thường và mạnh giá
thường được in trên tờ cổ phiếu. Mệnh giá cổ phiếu không liên quan đến giá thị
trường của cổ phiếu đó. Mệnh giá thể hiện tầm quan trọng duy nhất của nó vào thời
điểm cổ phần lần đầu tiên được phát hành.
Khi
cổ phiếu bán ra công chúng, giá của nó được xác định bởi giá mà các nhà đầu tư
mua nó; giá này được coi là giá thị trường hay giá trị thị trường; nó phụ thuộc
vào sự tin tưởng của người đầu tư với công ty phát hành.
Trên
thực tế, giá thị trường của cổ phiếu không phải do công ty ấn định và cũng
không phải do một người nào khác quyết định. Giá thị trường của cổ phiếu được
xác định bởi giá thấp nhất mà người bán sẵn sàng bán nó và giá cao nhất mà người
mua sẵn sàng mua nó.
Giá
trị sổ sách (book value) là một trong những chỉ số quan trọng và cần theo dõi
trong tài chính. Được tính là phần tài sản còn lại sau khi lấy tổng tài sản trừ
đi toàn bộ nghĩa vụ nợ của công ty (nghĩa vụ nợ bao gồm các khoản vay, các khoản
phải trả, vay thế chấp, doanh thu trả chậm và chi phí cộng dồn).
Tổng
tài sản – nghĩa vụ nợ = tài sản còn lại
Book value để tính toán và hiểu sâu được, cần tìm thêm các nguồn uy tín. Bạn có thể tham thảo thêm tại: https://www.fool.com/knowledge-center/what-is-book-value.aspx
Book value để tính toán và hiểu sâu được, cần tìm thêm các nguồn uy tín. Bạn có thể tham thảo thêm tại: https://www.fool.com/knowledge-center/what-is-book-value.aspx
Cổ
phiếu đầu cơ là một cổ phiếu có mức độ rủi ro cao, nhiều nhà đầu tư bị thu hút
vào các cổ phiếu đầu cơ do tính biến động cao hơn so với các cổ phiếu blue-chip
, điều này tạo ra cơ hội tạo ra lợi nhuận lớn hơn, và rủi ro cũng lớn tương ứng.
- Theo thống kê của investopedia, trên thế giới thông thường các cổ phiếu đầu cơ tập trung trong các lĩnh vực như khai thác , năng lượng , công nghệ và công nghệ sinh học . Ví dụ điển hình: bất chấp rủi ro đáng kể liên quan đến việc đầu tư vào các công ty giai đoạn đầu trong các lĩnh vực này, khả năng một công ty nhỏ có thể tìm thấy một mỏ khoáng sản khổng lồ, phát minh ra ứng dụng lớn tiếp theo hoặc khám phá ra cách chữa trị căn bệnh mang lại đủ động lực cho các nhà đầu cơ kiếm một lợi nhuận khủng.
- Một blue-chip đôi khi có thể trở thành một cổ phiếu đầu cơ nếu nó rơi vào thời điểm khó khăn và đang suy giảm triển vọng cho tương lai. Một cổ phiếu như vậy có thể đưa ra một lợi nhuận hấp dẫn nếu bản thân doanh nghiệp có thể xoay sở để xoay vòng hoạt động kinh doanh và tránh phá sản.
- Cổ phiếu đầu cơ thông thường vượt trội trong thị trường tăng trưởng rất mạnh khi các nhà đầu tư có khả năng chịu rủi ro cao . Nhưng lại diễn biến kém đi khi thị trường giảm, và dòng tiền của các nhà đầu tư tập trung về cổ phiếu vốn hóa lớn hơn, ổn định hơn.
- Theo khảo sát trên thế giới, các cổ phiếu đầu cơ thường chiếm một phần nhỏ trong danh mục đầu tư được nắm giữ bởi các nhà đầu tư có kinh nghiệm bởi vì các cổ phiếu đó có thể cải thiện triển vọng lợi nhuận cho danh mục đầu tư tổng thể .
Các
cổ phiếu tăng trưởng theo định nghĩa là những công ty có tiềm năng phát triển
đáng kể trong tương lai gần. Các công ty tăng trưởng hiện có thể đang tăng trưởng
với tốc độ nhanh hơn so với mặt bằng chung của thị trường và nhóm cổ phiếu này
thường dành phần lớn lợi nhuận cho việc mở rộng.
- Mỗi lĩnh vực của thị trường đều có các công ty tăng trưởng, nhưng phổ biến trên thế giới là các mảng như công nghệ, năng lượng thay thế và công nghệ sinh học. (tính toán của investopedia)
- Hầu hết các cổ phiếu tăng trưởng có xu hướng là các công ty mới, với các sản phẩm sáng tạo dự kiến sẽ tạo ra một tác động lớn trên thị trường trong tương lai.
- Tuy nhiên, một số công ty tăng trưởng chỉ đơn giản là những công ty hoạt động rất tốt với các mô hình kinh doanh của họ.
Cổ phiếu giá trị là gì (value stock)
Về
mặt lí thuyết, cổ phiếu giá trị là các công ty bị định giá thấp so với giá trị
thực. Tuy nhiên, để đánh giá một cổ phiếu
giá trị giao dịch ở mức dưới gia trị, nó phải dựa trên tình trạng tài chính và
các chỉ số kỹ thuật của nó.
Theo
quy định của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước UBCKNN, cổ phiếu quỹ là số cổ phiếu đã
phát hành và được mua lại trên thị trường bởi chính tổ chức phát hành. Do vậy,
thì số cổ phiếu còn lại không bán được sau một đợt phát hành không được coi là
cổ phiếu quỹ.
Một
số điểm đáng lưu ý về cổ phiếu quỹ và giao dịch cổ phiếu quỹ
- Cổ phiếu quỹ không được tính là cổ phiếu đang lưu hành của công ty phát hành và sẽ được tái lưu hành khi công ty bán ra
- Số lượng cổ phiếu lưu hành thay đổi, sẽ có ảnh hưởng tới tổng lượng cung trên thị trường và do đó, sẽ ảnh hưởng tới giá cổ phiếu.
- Cổ phiếu quỹ không được chia cổ tức và người nắm giữ cổ phiếu này không có những quyền như khi nắm giữ các cổ phiếu khác
Lượng
tiền công ty dùng để chi trả cổ tức chỉ được chia cho số cổ phiếu lưu hành chứ
không chia cho số cổ phiếu quỹ. Ngoài ra, công ty không được hưởng một số quyền
khác khi nắm giữ cổ phiếu quỹ như quyền biểu quyết hay đặc biệt là quyền được
chia thêm cổ phiếu mới phát hành.
Vì sao công
ty mua mua lại cổ phiếu làm cổ phiếu quỹ?
Trường hợp 1: Công ty có một lượng tiền nhàn rỗi mà chưa có kế hoạch đầu tư hiệu quả
Thay
vì trả cổ tức cho các cổ đông, công ty mua lại cổ phiếu đã phát hành làm số lượng
cổ phiếu đang lưu hành giảm, dẫn đến tỉ lệ sinh lời trên mỗi cổ phiếu (EPS) = lợi
nhuận ròng - cổ tức ưu đãi/số cổ phiếu đang lưu hành sẽ tăng lên nếu công ty vẫn
duy trì tốt hoạt động kinh doanh và do đó, sẽ có lợi cho các cổ đông hiện hữu.
Ngoài
ra, về phía các nhà quản lý công ty, họ cũng kỳ vọng vào việc giá cổ phiếu sẽ
tăng lên trong tương lai khi mua lại cổ phiếu làm cổ phiếu quỹ.
Tuy
nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng, việc mua lại cổ phiếu đã phát hành làm giảm lượng
tiền và do đó làm giảm cơ hội đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh của công ty.
Ðiều này có thể sẽ ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của công ty trong thời gian
tới.
Trường hợp 2: Theo các nhà quản lý công ty, cổ phiếu của công ty đang bị đánh giá thấp
Việc
công ty mua lại cổ phiếu sẽ làm giảm lượng cung, do đó thường có ảnh hưởng tốt
tới biến động giá cổ phiếu trên thị trường. Ðây là cách can thiệp của một số
công ty khi giá cổ phiếu đang giảm.
Trường
hợp này đã từng diễn ra ở Việt Nam trong thời kỳ giá các cổ phiếu có chiều hướng
đi xuống, chất lượng mua sụt giảm. Những lệnh đặt mua cổ phiếu của chính tổ chức
phát hành đã làm cho giao dịch trên thị trường sôi động hơn, đồng thời giúp giá
cổ phiếu không xuống dốc nhanh.
Vì sao công
ty phát hành bán ra cổ phiếu quỹ?
Công
ty cần thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Do đó, việc tái giá phát hành
có cao hơn giá mua lại hay không, về nguyên tắc không ảnh hưởng tới quyết định
bán ra của công ty. Ðây cũng là giải pháp khá phổ biến giúp các công ty niêm yết
trên thị trường Việt Nam có thêm vốn đầu tư vào các dự án kinh doanh mới REE với
dự án E-Town, Bibica với việc xây dựng thêm Nhà máy Sản xuất bánh kẹo tại Hà Nội....
Giao
dịch cổ phiếu quỹ thường có ảnh hưởng đáng kể tới giá cổ phiếu trên thị trường.
Nếu để các công ty niêm yết tự do can thiệp vào giá cổ phiếu thông qua việc mua
bán cổ phiếu quỹ sẽ làm giảm khả năng tự điều tiết của thị trường.
Tra cứu giao dịch cổ phiếu quỹ tại: http://www.ssc.gov.vn/ubck/faces/oracle/webcenter/portalapp/pages/vi/giaodichcophieuquy.jspx
Tra cứu giao dịch cổ phiếu quỹ tại: http://www.ssc.gov.vn/ubck/faces/oracle/webcenter/portalapp/pages/vi/giaodichcophieuquy.jspx
Và 1001 định nghĩa khác về cổ phiếu
- Cổ phiếu bluechips là gì: Cty lớn, ổn định, cổ tức ổn định và tăng đều. CP này ít mất giá nhưng có thể tăng giá chậm
- CP tăng trưởng là gì: Cty có d.số, th.nhập & t.phần tăng với t.độ nhanh (R&D, giữ lại l.nhuận). Cổ tức thấp nhưng có thể tăng giá mạnh
- CP phòng vệ: Cty có khả năng chống đỡ suy thoái. Cổ tức ổn định, ít mất giá khi k.tế suy thoái, nhưng k.tế t.trưởng cũng tăng giá chậm
- CP thu nhập: C.tức cao hơn mức tr.bình, th.nhập thường xuyên, ít tăng giá
- CP chu kỳ: L.nhuận biến đổi theo chu kỳ k.doanh
- CP thời vụ: Th.nhập biến động theo thời vụ.
Một
cổ phiếu penny thường giao dịch với mức giá tương đối thấp và có vốn hóa thị
trường nhỏ. Những cổ phiếu này thường được coi là đầu cơ cao và rủi ro cao vì
thiếu thanh khoản, chênh lệch giá chào mua lớn, vốn hóa nhỏ và nhiều hạn chế về
mặt thông tin.
- Cổ phiếu Penny phù hợp hơn cho các nhà đầu tư có khả năng chấp nhận rủi ro cao. Các cổ phiếu penny có mức độ biến động cao hơn, lợi nhuận tiềm năng cao hơn và mức độ rủi ro cao hơn.
- Để giao dịch cổ phiếu penny, cần có hệ thống quản lí rủi ro tốt. Ví dụ như nên có một lệnh dừng lỗ được xác định trước khi tham gia giao dịch, biết nơi để thoát ra nếu thị trường di chuyển ngược với hướng dự định. Và luôn hiểu rằng có thể mất toàn bộ tiền vào một cổ phiếu penny, hoặc nhiều hơn nếu mua ký quỹ.
- Mặc dù cổ phiếu penny có thể tăng đột biến, nhưng điều quan trọng là chúng ta phải có những kỳ vọng thực tế. Thông thường, lợi nhuận trong thị trường chứng khoán phải mất nhiều tháng và nhiều năm để có được, nhưng chúng ta mua cổ phiếu penny với ý định biến 1000 đồng thành 50.000 đồng một tuần có thể sẽ thất vọng sâu sắc.
Là
cổ phiếu có vốn hóa Thị trường từ 1.000 đến 10.000 tỷ đồng: có 201 Công ty đạt
tiêu chí này, trong đó có 119 ở HOSE, 31 ở HNX và 51 ở UPCoM (MidCap chiếm khoảng
21,9% tổng vốn hóa Toàn thị trường).
Một
cổ phiếu blue-chip là cổ phiếu của một công ty lớn, có uy tín và tài chính tốt,
đã hoạt động trong nhiều năm. Cái tên Bluechip bắt nguồn từ poker, trong đó
blue-chip là loại chip đắt nhất.
Một
cổ phiếu blue-chip thường có vốn hóa thị trường hàng nghìn tỷ, là công ty dẫn đầu
thị trường hoặc trong số ba công ty hàng đầu trong lĩnh vực của nó. Một số cái
tên quen thuộc về cổ phiếu blue-chip là VNM, GAS, VIC, VCB, FPT, BVH,...
Ngộ
nhận về sự an toàn của cổ phiếu Blue-Chip
Trong
khi một công ty blue-chip có thể đã sống sót qua một số thách thức và chu kỳ thị
trường , dẫn đến nó được coi là một khoản đầu tư an toàn, điều này có thể không
phải luôn luôn như vậy. Đơn cử như vụ phá sản của General Motors và Lehman
Brothers , cũng như một số ngân hàng hàng đầu châu Âu trong thời kỳ suy thoái
toàn cầu năm 2008, là bằng chứng cho thấy ngay cả những công ty tốt nhất cũng
có thể “sấp mặt” trong khủng hoảng. Việt nam thì có thể nói lên điển hình của
GAS giai đoạn 2014.
HOSE:
là viết tắt của Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Được thành lập
tháng 7 năm 2000. Đây là sàn chứng khoán có Quy mô lớn nhất tại Việt Nam.
Cổ phiếu HNX là gì
HNX:
là viết tắt của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (tên tiếng Anh là Hanoi Stock
Exchange) là thị trường chứng khoán tại Hà Nội. Quy mô lớn thứ hai.
Upcom:
là viết tắt của “Unlisted Public Company Market” – thị trường giao dịch chứng
khoán của các công ty đại chúng chưa niêm yết được tổ chức tại Sở Giao Dịch Chứng
Khoán Hà Nội.
OTC:
là viết tắt của Over-The-Counter Market là thị trường chứng khoán phi tập trung
hay thị trường chứng khoán chưa niêm yết, được tổ chức theo hình thức mua bán
thỏa thuận giá giữa người đầu tư và công ty chứng khoán, hoặc giữa công ty chứng
khoán với nhau. Giá giao dịch thể hiện trên giấy tờ giao dịch luôn theo mệnh
giá là: 10.000 vnđ, mặc dù giá giao dịch thực tế có thể chênh lệch nhiều lần so
với mệnh giá.
Giai
đoạn sơ khai của việc mua bán chứng khoán được thực hiện một cách thủ công tại
quầy của các ngân hàng và các công ty chứng khoán. Phương thức giao dịch chủ yếu
là mua bán trực tiếp, thương lượng thỏa thuận giá. Giá cổ phiếu OTC lên hay xuống
không theo một biên độ nhất định nào, mà do bên mua và bên bán tự thỏa thuận
giá. Kênh OTC cũng khá hạn chế về mặt thông tin.
Chia
tách cổ phiếu (tên tiếng anh là Stock Split) về bản chất là chia nhỏ số cổ phiếu,
giá sẽ điều chỉnh giảm giảm và tăng số lượng cổ phiếu đó tương ứng theo tỉ lệ,
giữ nguyên giá trị vốn hóa thị trường.
Giả
sử một DN công bố chia cổ tức bằng cổ phiếu tỷ lệ 20% với giá thị trường đang
là 20,000 đồng/cp. Như vậy, mỗi 10 cổ phiếu cũ với giá 20,000 đồng/cp sẽ được
tách thêm 2 cổ phiếu mới với giá thị trường sẽ điều chỉnh giảm là
20,000x80%=16,000 đồng/cp do pha loãng.
Nói
một cách dễ hiểu hơn, nếu nhà đầu tư sẵn có 100 cái bánh lớn, thì anh ta sẽ nhận
được 120 cái bánh nhỏ hơn sau khi chia cổ tức. Theo đó, tổng giá trị không hề
thay đổi trong khi số lượng bánh thì tăng lên khiến giá của mỗi cái bánh giảm
đi. Đây là câu chuyện của vấn đề pha loãng cổ phiếu mà nhà đầu tư thường hay nhầm
lẫn.
Lô
lẻ là những lô khối từ
1
tới 9 cổ phiếu (trường hợp lô chẵn 10 cổ phiếu)
1
tới 99 cổ phiếu (trường hợp lô chẵn 100 cổ phiếu)
1
tới 999 cổ phiếu (trường hợp lô chẵn 1.000 cổ phiếu).
Giá
giao dịch lô lẻ thường được xác định trên cơ sở quyết định của Công ty môi giới
căn cứ vào giá đóng cửa của ngày giao dịch hôm trước.
Việc
giao dịch lô lẻ được thực hiện tại công ty chứng khoán và trong giao dịch lô lẻ,
công ty môi giới thường thu phí cao hơn.
Short sell là bán một tài sản hoặc cổ phiếu mà người bán không sở hữu. Nó thường là một giao dịch trong đó một nhà đầu tư bán chứng khoán vay với dự đoán về việc giảm giá; người bán sau đó được yêu cầu trả lại một số lượng cổ phần bằng nhau tại một thời điểm nào đó trong tương lai.
Trên
thế giới, bán khống là một giao dịch trong đó người bán không thực sự sở hữu cổ
phiếu đang được bán mà mượn nó từ đại lý môi giới mà họ đang đặt lệnh bán. Người
bán sau đó có nghĩa vụ mua lại cổ phiếu tại một thời điểm nào đó trong tương
lai. Các nhà môi giới mượn cổ phiếu cho các giao dịch bán khống từ các ngân
hàng lưu ký và các công ty quản lý quỹ cho vay. Tuy nhiên ở Việt Nam, hiện tại
bán khống chỉ có ở giao dịch chứng khoán phái sinh.
Sự
pha loãng cổ phiếu xảy ra khi các công ty niêm yết làm giảm tỷ lệ sở hữu của
các cổ đông hiện tại, thông qua việc tăng thêm số lượng cổ phiếu. Lý do tại sao
cổ phiếu loãng có ý nghĩa tiêu cực khá đơn giản: cổ đông của công ty là chủ sở
hữu của nó và bất cứ điều gì làm giảm mức độ sở hữu của nhà đầu tư cũng làm giảm
giá trị nắm giữ của nhà đầu tư.
Về
bản chất, cổ tức bằng cổ phiếu (hoặc thưởng bằng cổ phiếu) chính là nghiệp vụ
chia tách cổ phiếu và nó không hề phát sinh bất kỳ dòng tiền mới nào giúp doanh
nghiệp (DN) gia tăng nội lực của mình.
Nói
dễ hiểu hơn qua ví dụ một DN công bố chia cổ tức bằng cổ phiếu tỷ lệ 10% với
giá thị trường đang là 20,000 đồng/cp. Như vậy, mỗi 10 cổ phiếu cũ với giá
20,000 đồng/cp sẽ được tách thành 11 cổ phiếu mới với giá thị trường thấp hơn
là 18,200 đồng/cp do pha loãng.
Có
3 hình thức pha loãng cổ phiếu là:
- Chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu.
- Cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thưởng. (cổ phiếu thưởng là gì)
- Phát hành thêm cổ phiếu. (phát hành cổ phiếu là gì)
Chính
do trường hợp 1,2 nhà đầu tư ít gặp nên rất dễ bị nhầm lẫn định nghĩa pha loãng
cổ phiếu chính là phát hành thêm cổ phiếu, mà thực ra chỉ là 1 trường hợp nằm
trong đó.
Repo cổ phiếu là gì (thế chấp cổ phiếu là gì)
Hiểu
một cách đơn giản, giao dịch repo là việc nhà đầu tư dùng chứng khoán để thế chấp
đi vay tiền, khoản tiền này là rút được (khác với nghiệp vụ vay margin là dùng tiền hoặc cổ phiếu để thế chấp vay mua thêm cổ phiếu). Nghiệp vụ Repo được thực hiện như sau:
Giải
thích đơn giản bằng ví dụ: nếu một công ty phát hành cổ tức bằng cổ phiếu 5%,
công ty sẽ tăng thêm 5% cổ phần (1 cổ phiếu cho mỗi 20 sở hữu). Nếu có 1 triệu
cổ phiếu trong một công ty, điều này sẽ chuyển thành thêm 50.000 cổ phiếu. Nếu
bạn sở hữu 100 cổ phiếu trong công ty, bạn sẽ nhận được năm cổ phiếu bổ sung.
Giống
như cổ tức tiền mặt, phát hành cổ phiếu trả cổ tức không làm tăng giá trị của
công ty. Nếu công ty được định giá 10 triệu đô la, giá cổ phiếu 10$, phát hành
10% cổ tức bằng cổ phiếu. Sau khi phát hành để chia cổ tức bằng cổ phiếu, giá
trị sẽ giữ nguyên là 10 triệu $, nhưng giá cổ phiếu sẽ giảm xuống còn 9.1 đô
la.
Nhìn
về lịch sử chứng khoán Việt Nam, có những doanh nghiệp sử dụng chính sách “chỉ” chia cổ tức bằng cổ
phiếu suốt nhiều năm liền như ITA (10 năm), DLG (5 năm), DXG (3 năm) hay FIT (2
năm).
Trong
thị trường giá lên (bull market), chính sách cổ tức bằng cổ phiếu thường được
nhiều DN và kể cả cổ đông ưa chuộng. Khi giá cổ phiếu đang tăng mạnh, việc pha loãng cổ phiếu giúp thị giá giảm xuống, tạo tâm lý tích cực trong ngắn hạn cho
những nhà đầu tư có nhu cầu giải ngân. Bên cạnh đó, nhà đầu tư cũng kỳ vọng sự
tăng trưởng về giá cổ phiếu sau đó sẽ mang lại một khoản lợi nhuận lớn hơn tiền
mặt.
Ngược lại, trong thị trường giá xuống (bear market), đặc biệt tại giai đoạn thị trường ảm đạm, việc chia cổ tức bằng cổ phiếu sẽ gây tâm lý tiêu cực cho nhà đầu tư vì pha loãng cổ phiếu khiến cảm giác giảm giá cổ phiếu trở nên trầm trọng hơn, nhà đầu tư cũng cảm thấy chắc ăn hơn khi nắm giữ tiền mặt.
Những ngộ nhận nguy hiểm của chia tách cổ phiếu:
Ngược lại, trong thị trường giá xuống (bear market), đặc biệt tại giai đoạn thị trường ảm đạm, việc chia cổ tức bằng cổ phiếu sẽ gây tâm lý tiêu cực cho nhà đầu tư vì pha loãng cổ phiếu khiến cảm giác giảm giá cổ phiếu trở nên trầm trọng hơn, nhà đầu tư cũng cảm thấy chắc ăn hơn khi nắm giữ tiền mặt.
Những ngộ nhận nguy hiểm của chia tách cổ phiếu:
- “Chia cổ tức bằng cổ phiếu giúp tổng tài sản đầu tư tăng lên”. Ngộ nhận này là thường thấy nhất và là một trong các nguyên nhân chính gây ra các đợt sóng tăng trần khi có tin chia cổ tức bằng cổ phiếu. Thật ra, dù nhà đầu tư có nhiều cổ phiếu hơn, nhưng giá của mỗi cổ phiếu đã bị pha loãng (xem thêm phần pha loãng cổ phiếu) khi tách cổ phiếu nên tổng tài sản anh ta vẫn hoàn toàn giữ nguyên, không tăng không giảm, thậm chí còn bị chôn vốn tầm hơn 1 tháng do cổ phiếu chia tách chưa về.
- “Tỷ trọng sở hữu của tôi bị giảm so với các cổ đông khác”. Trong thực tế, tỷ trọng sở hữu cổ phiếu của nhà đầu tư vẫn hoàn toàn giữ nguyên, do tất cả cổ đông đều được chia thêm cổ phiếu tương ứng với tỷ lệ nắm giữ. Ví dụ như ông A nắm 1 cổ phiếu trong 100 cổ phiếu của DN – tương ứng 1% cổ phần của công ty này. Khi có tin chia 20% bằng cổ phiếu, anh ta sẽ được 1.2 cổ phiếu trên 120 cổ phiếu – vẫn giữ nguyên mức 1% sở hữu.
- “Chia cổ tức bằng cổ phiếu gia tăng giá trị cổ đông do giúp cổ đông tránh được thuế”. Chia cổ tức bằng cổ phiếu giúp tránh được thuế là đúng, nhưng trường hợp này cũng giống như việc không hề chia cổ tức, do doanh nghiệp giữ lại tiền mặt để tái đầu tư. Việc tránh được thuế thực chất không có nghĩa là gia tăng giá trị cổ đông. Giá trị cổ đông chỉ tăng thêm khi lượng tiền giữ lại được DN sử dụng một cách hiệu quả.
- “Chia cổ tức bằng cổ phiếu chứng tỏ DN tăng vốn hơn trước, mở rộng lớn mạnh hơn”. Điều này chỉ đúng ở vế đầu vì việc chia cổ tức bằng cổ phiếu đúng là đã giúp DN gia tăng vốn điều lệ của mình. Song như đã đề cập vấn đề này ở trên, xét về bản chất, vốn chủ sở hữu, tổng tài sản lại không hề thay đổi và hơn hết là không có bất kỳ dòng tiền phát sinh mới chảy vào doanh nghiệp. Do đó, thoạt nhìn có vẻ DN to lớn hơn nhưng thực sự đây chỉ là nghiệp vụ sổ sách.
ESOP
hiểu đơn giản là cổ phiếu của một công ty được bán với giá ưu đãi cho các nhân
viên xuất sắc, nhà quản lý giỏi, người lao động cần cù theo các tiêu chí lựa chọn
trước của công ty.
Các
tập đoàn lớn trên thế giới đều sử dụng ESOP như một quân bài chiến lược để giữ
người tài. Hai năm trước, người khổng lồ công nghệ Google trao tặng Neal Mohan
– một nhà quản lý quảng cáo trực tuyến rất giỏi của hãng, một lượng cổ phiếu có
giá trị lên tới 100 triệu USD. Nhờ vào các thành tích bao gồm việc giúp công ty
đi đúng hướng, tránh mắc sai lầm trong chiến lược M&A như các đối thủ Yahoo
và Microsoft.
Tại
Viêt Nam có thể ví dụ qua trường hợp của MWG, VCI, VNM,... trong phát hành ESOP
hàng năm cho nhân viên.
Hiểu
đơn giản là dạng cổ phiếu mới niêm yết, các cty chứng khoán chưa được phép cho
vay mua cổ phiếu này, dù cho cổ phiếu có thanh khoản, vốn hóa, chỉ số cơ bản tốt
đến cỡ nào.
Tại
Việt Nam, luật về cổ phiếu chưa được kí quỹ được ban hành qua quyết định 87 của
ủy ban chứng khoán nhà nước.
Theo luật này chứng khoán đủ tiêu chuẩn giao dịch ký quỹ bao gồm: cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán và không thuộc các trường hợp sau:
(1) Chứng khoán có thời gian niêm yết chưa đủ 03 tháng tính từ ngày giao dịch đầu tiên đến thời điểm xem xét, lựa chọn để được giao dịch ký quỹ. Trường hợp chứng khoán chuyển sàn niêm yết thì thời gian niêm yết được tính là tổng thời gian đã niêm yết.
(2) Chứng khoán niêm yết trong tình trạng bị cảnh báo, bị kiểm soát; bị tạm ngừng giao dịch, trong diện bị hủy niêm yết bắt buộc theo quy định có liên quan về niêm yết chứng khoán.
Tuy nhiên, theo dự thảo Quy chế, hai trường hợp trên không áp dụng trong đối với cổ phiếu niêm yết thuộc danh mục trong bộ chỉ số VN100 và HNX30 do Sở giao dịch chứng khoán công bố tại thời điểm gần nhất.
(3) Chứng khoán của tổ chức phát hành có báo cáo tài chính năm được kiểm toán hoặc báo cáo tài chính bán niên được soát xét có ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần của tổ chức kiểm toán.
(4) Tổ chức niêm yết chậm công bố thông tin báo cáo tài chính năm đã kiểm toán, báo cáo tài chính bán niên đã soát xét quá 05 ngày làm việc kể từ ngày hết hạn công bố thông tin hoặc hết hạn thời hạn gia hạn công bố thông tin theo quy định.
(5) Kết quả kinh doanh của tổ chức niêm yết bị lỗ căn cứ trên báo cáo tài chính năm gần nhất đã kiểm toán hoặc báo cáo tài chính bán niên gần nhất đã soát xét.
Theo luật này chứng khoán đủ tiêu chuẩn giao dịch ký quỹ bao gồm: cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán và không thuộc các trường hợp sau:
(1) Chứng khoán có thời gian niêm yết chưa đủ 03 tháng tính từ ngày giao dịch đầu tiên đến thời điểm xem xét, lựa chọn để được giao dịch ký quỹ. Trường hợp chứng khoán chuyển sàn niêm yết thì thời gian niêm yết được tính là tổng thời gian đã niêm yết.
(2) Chứng khoán niêm yết trong tình trạng bị cảnh báo, bị kiểm soát; bị tạm ngừng giao dịch, trong diện bị hủy niêm yết bắt buộc theo quy định có liên quan về niêm yết chứng khoán.
Tuy nhiên, theo dự thảo Quy chế, hai trường hợp trên không áp dụng trong đối với cổ phiếu niêm yết thuộc danh mục trong bộ chỉ số VN100 và HNX30 do Sở giao dịch chứng khoán công bố tại thời điểm gần nhất.
(3) Chứng khoán của tổ chức phát hành có báo cáo tài chính năm được kiểm toán hoặc báo cáo tài chính bán niên được soát xét có ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần của tổ chức kiểm toán.
(4) Tổ chức niêm yết chậm công bố thông tin báo cáo tài chính năm đã kiểm toán, báo cáo tài chính bán niên đã soát xét quá 05 ngày làm việc kể từ ngày hết hạn công bố thông tin hoặc hết hạn thời hạn gia hạn công bố thông tin theo quy định.
(5) Kết quả kinh doanh của tổ chức niêm yết bị lỗ căn cứ trên báo cáo tài chính năm gần nhất đã kiểm toán hoặc báo cáo tài chính bán niên gần nhất đã soát xét.
Mua kí quỹ cổ phiếu là gì
Mua
ký quỹ cổ phiếu là việc khách hàng vay tiền của công ty chứng khoán để mua chứng
khoán. Với phương thức mua ký quỹ, khách hàng có thể tăng lượng lợi nhuận được
thu trên một tổng đầu tư nhất định, và công ty chứng khoán thì thu được phí hoa
hồng do việc thực hiện một khối lượng dịch vụ lớn hơn, đồng thời cũng thu tiền
lãi trên tiền cho khách hàng vay. Loại giao dịch này được thực hiện trên tài
khoản bảo chứng.
Ví
dụ: Bạn dự đoán cổ phiếu thường ABC với giá hiện thời là 15.000 đồng một cổ phiếu,
sẽ tăng giá trong vòng 1 năm, lên 30.000 đồng. Với số tiền bạn có là 1.500.000
đồng, bạn có thể mua 100 cổ phiếu ABC, nắm giữ trong một năm và bán ra để thu về
3.000.000 đồng, đạt mức lợi tức trên đầu tư là 100%.
Tuy
nhiên, bạn cũng có thể thực hiện việc ký quỹ bằng cách trả 50% tổng giá mua,
50% còn lại sẽ vay tại công ty chứng khoán, nơi bạn mở tài khoản ký quỹ. Trong
trường hợp này, bạn có thể đầu tư 3.000.000 đồng và mua 200 cổ phiếu. Nếu dự
đoán của bạn là đúng, giá thị trường của cổ phiếu ABC tăng lên 30.000 đồng
trong vòng 1 năm, bạn có thể bán cổ phiếu ra và thu về 6.000.000 đồng. Tất
nhiên, trong số 6.000.000 đồng thu về này bạn phải trả lại 1.500.000 đ đã vay của
công ty chứng khoán, và tiền lãi của khoản vay đó, giả sử với lãi suất 10% một
năm:
6.000.000
– 1.500.000 – 150.000 = 4.350.000 (đồng)
Lợi
nhuận của bạn sẽ là chênh lệch giữa con số đầu tư ban đầu 1.5 triệu, tức là bằng
2.850.000 đồng, lợi tức so với đầu tư là 190%. Vậy mua ký quỹ đã làm tăng tỷ lệ
lợi nhuận của bạn lên đáng kể.
Dù vậy, mua ký quỹ cũng như con dao hai lưỡi. Nếu cổ phiếu lên giá, bạn sẽ có lời
đáng kể, nhưng nếu cổ phiếu giảm giá, khoản lỗ của bạn cũng tăng lên. Ngay cả
khi cổ phiếu vẫn giữ nguyên mức giá, bạn cũng vẫn thua lỗ, bởi số lãi phải trả
cho số tiền vay trong suốt thời gian ký quỹ cứ lớn dần lên. Và hơn nữa, không
phải chứng khoán nào cũng được phép giao dịch theo mức này.
Mức
ký quỹ ban đầu được thực hiện theo luật định, ví dụ như luật Mỹ là 50%. Sau đó,
nếu giá thị trường của cổ phiếu thay đổi, tỷ lệ của số dư ký quỹ của khách hàng
so với số dư nợ có thể giảm xuống nhưng không xuống thấp hơn 25% nếu tụt xuống
quá ngưỡng này, công ty chứng khoán có thể yêu cầu khách hàng đặt thêm tiền ký
quỹ.
Để hiểu hơn về cổ phiếu kí quỹ, margin, hay giao dịch kí quỹ, bạn có thể xem qua bài viết chi tiết này về margin: https://www.cafechungkhoan.com/2018/09/margin-la-gi.html